Trang chủ -> Danh nhân Việt Nam -> NGUYỄN PHÚC NGUYÊN (16/8/1563 – 19/11/1635)
 04/06/2015 11:56


NGUYỄN PHÚC NGUYÊN (16/8/1563 – 19/11/1635)


Nguyễn Phúc Nguyên
(chữ Hán: 阮福源; 16 tháng 8, năm 1563 – 19 tháng 11, năm 1635), còn gọi là Nguyễn Hy Tông (阮熙宗), là vị chúa Nguyễn thứ hai của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam, ông ở ngôi từ 1614 đến 1635, tổng cộng 21 năm.

Nguyễn Phúc Nguyên được dân chúng đương thời gọi là chúa Sãi (主塞), chúa Bụt hay Phật chúa (佛主). Trong thời gian ở ngôi chúa, ông đã xây dựng một vương triều độc lập ở Đàng Trong, từng bước ly khai khỏi chính quyền vua Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.

Năm 1806, Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế truy phong miếu hiệu cho ông là Hy Tông (熙宗), thụy hiệu là Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu Văn Hoàng Đế (顯謨光烈溫恭明睿翼善綏猷孝文皇帝).

Thân thế

Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Tiên Nguyễn Hoàng và chính thất Nguyễn phu nhân. Ông sinh ngày 28 tháng 7 năm Quý Hợi, tức ngày 16 tháng 8 năm 1563.

Nguyễn Phúc Nguyên là người đầu tiên trong dòng dõi chúa Nguyễn mang họ kép Nguyễn Phúc (阮福). Tương truyền lúc mang thai, thân mẫu ông chiêm bao thấy có vị thần đưa cho một tờ giấy trên có đề chữ "Phúc". Lúc kể lại chuyện, mọi người chúc mừng bà và đề nghị đứa bé ra đời được đặt tên là "Phúc". Nhưng bà nói rằng, nếu chỉ đặt tên Phúc cho đứa bé thì chỉ một mình nó hưởng, để cho nhiều người trong dòng họ được hưởng phúc, bà đề nghị lấy chữ này làm chữ lót. Và khi thế tử ra đời bà đặt tên là Nguyễn Phúc Nguyên.

Trong các con của Nguyễn Hoàng, người con đầu là Nguyễn Hà, con thứ là Nguyễn Hán, con thứ ba là Nguyễn Diễn và con thứ tư là Nguyễn Thành đều đã mất sớm; người con thứ năm là Nguyễn Hải ở lại Bắc Hà làm con tin, chỉ còn Nguyễn Phúc Nguyên là người đủ khả năng và điều kiện để kế nghiệp cha.

Năm 1585, khi mới 22 tuổi, Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên dẫn một hạm đội 10 chiếc đến bến Cửa Việt, tiêu diệt hai chiếc tàu hải tặc Shirahama Kenki (Bạch Tần Hiển Quý), người Nhật Bản. Chúa Tiên vui mừng khen rằng:

Con ta thực là anh kiệt.

Năm Nhâm Dần (1602), Nguyễn Phúc Nguyên được cử đến trấn thủ dinh Quảng Nam.

Điều hành Đàng Trong

Tháng 6 năm Quý Sửu (1613), chúa Tiên Nguyễn Hoàng mất, các quan vâng di chiếu tôn Phúc Nguyên làm Thống lãnh Thuỷ bộ Chư dinh kiêm Tổng Nội ngoại Bình chương Quân quốc Trọng sự Thái bảo Thụy Quận công.. Bấy giờ ông đã 51 tuổi. Ông còn được hoàng đế Lê Kính Tông sắc phong làm trấn thủ hai xứ Thuận Hóa, Quảng Nam, gia phong hàm Thái bảo.

Năm 1620, 2 người em là Nguyễn Phúc Hiệp và Nguyễn Phúc Trạch âm mưu nổi loạn thông đồng với họ Trịnh. Hai người này đem quân chiếm kho Ái Tử và đắp lũy Cồn Cát để làm phản. Chúa sai người đến dỗ song họ không chịu nghe. Sau Chúa cùng tiên phong Tôn Thất Tuyên đem đại binh đi đánh. 2 người em thua chạy bị bắt được. Chúa định tha nhưng các tướng đều khuyên ngăn, cuối cùng 2 người chỉ bị giam vào ngục.

Năm 1622, Chúa Sãi cho đặt dinh Ai Lao, do đất này có sông Hiếu là giáp ranh với đất Ai Lao và các bộ lạc Man Lục Hoàn, Vạn Tượng, Trấn Ninh, Quy Hợp. Mộ dân các nơi chia làm 6 thuyền quân để coi giữ.

Năm 1626, Chúa cho dời vương phủ về làng Phước Yên, xã Phúc Yên, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Được sự tiến cử của Khám lý Trần Đức Hòa, Chúa Phúc Nguyên đã thu dụng Đào Duy Từ (1572 - 1634). Nhờ có sự hiến kế của Đào Duy Từ, ông đã cho xây Lũy Thầy (lũy Trường Dục, lũy Nhật Lệ và lũy Trường Sa). Tạo thành một thế vững chắc cho xứ Đàng Trong, gây dựng chính quyền độc lập với Đàng Ngoài.

Do nhu cầu phát triển lực lượng chống Trịnh, Chúa mời cha con nhà Jean De La Croix (Bồ Đào Nha) từ Hội An ra Huế giúp nhà Chúa mở xưởng đúc vũ khí đạn dược. Jean De La Croix cần có nơi hành lễ hàng tuần và sau đó nhà thờ Cơ đốc giáo đầu tiên xuất hiện trên đất Huế.

Năm 1631, Chúa lập ra sở đúc súng đại bác, mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa, cứ hằng năm luyện tập để phòng bị chiến tranh.

Hành chính

Chúa Phúc Nguyên đã tiến hành cải tổ lại bộ máy hành chính. Lãnh thổ được chia theo Thừa Tuyên hay Xứ, phân thành Chính Dinh, Dinh ngoài. Dưới dinh là các phủ huyện.

Được chia ra 7 dinh: Chính Dinh (Phú Xuân), Cựu Dinh (Ái Tử – Quảng Trị), Quảng Bình, Vũ Xá, Bố Chính, Quảng Nam và Trấn Biên.

Mỗi dinh có thể coi như một tỉnh hiện nay. Hành chính có chức quan lưu thủ đứng đầu, quân sự thì có chức quan tuần thủ chỉ huy.

Quan chế

Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty, Hiến ty, là thiết chế quân sự của hệ thống chính quyền nhà Lê.

Trong các năm 1614 và 1615, ông tổ chức lại việc cai trị, đặt ra tam ti tại Chính dinh và các chức lệnh sử để trông coi mọi việc, định qui chế các chức vụ ở phủ, huyện, phân chia ruộng đất ở thôn xã.

- Tam-ti là: Xá sai ti, Tướng thần lại ti, Lệnh sử ti.

- Xá sai ti: giữ việc từ tụng văn án. Có quan Đô tri, Ký lục làm đầu.

- Tướng thần lại ti: giữ việc thu tiền thu thuế, chi phát lương thực cho quan các đạo. Có quan cai bạ làm đầu.

- Lệnh sử ti: giữ việc tế tự, tết nhất và việc chi cấp lương cho quân ở Chính Dinh. Có quan Nha úy làm đầu.

Mỗi ti lại có quan Cai hợp, Thủ hợp và các lại ti để làm mọi việc.

Bên cạnh đó còn các ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ.

Tại các dinh ở ngoài, tuỳ theo từng nơi, có nơi Chúa chỉ đặt một Lệnh sử ti kiêm cả việc Xá sai ti và Tướng thần lại ti, nhưng cũng có nơi đặt hai ti là Xá sai ti và Tướng thần lại ti, có nơi thì đặt Xá sai ti và Lệnh sử ti để coi việc quân dân, đinh điền, sổ sách, từ tụng, thuế khóa... nghĩa là tùy nơi quan trọng hay là không, mà thêm bớt quan viên.

Đầu năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành. Theo quy chế này thì ở phủ huyện, Tri phủ, Tri huyện coi việc từ tụng; các thuộc hạ thì có: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám. Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc tế tự ở chỗ sở tại. Còn việc thu thuế thì đặt quan khác để coi về việc ấy.

Về đàng quan võ thì đặt chức: chưởng đinh, chưởng cơ, cai cơ, cai đội để coi việc binh.

Quan lại ở Bắc Bổ được bổ vào xứ Thuận Quảng cho đến khi chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên không chịu nộp thuế cho nhà Lê.

Chiến tranh với quân Trịnh

Năm 1600, Nguyễn Hoàng sau khi từ Bắc trở về Thuận Hóa đã quyết tâm đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập. Tuy vẫn giữ quan hệ hoà hiếu với chính quyền Lê-Trịnh, hàng năm vẫn nộp thuế má, Nguyễn Hoàng đã tạo những cơ sở bước đầu tuy vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho người kế nhiệm Nguyễn Phúc Nguyên trước lúc qua đời.

"Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung. Anh em trước hết phải thân yêu nhau. Mày mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì."

"Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Hoành Sơn và sông Gianh hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta".

Thực hiện di nguyện của cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước xây dựng lực lượng nhằm ly khai hẳn với triều đình Lê-Trịnh. Cuộc chiến đầu tiên năm 1627 mở đầu cho 7 cuộc đại chiến kéo dài 45 năm giữa 2 chính quyền Trịnh- Nguyễn.

   - Cuộc chiến đầu tiên (1627)

Năm 1620, Chúa Phúc Nguyên ngừng nộp thuế cho chính quyền Lê-Trịnh đàng ngoài

Năm 1624, nhân khi nhà Minh đang chống chọi với nhà Thanh, và nhà Mạc ở Cao Bằng bị diệt, Chúa Trịnh Tráng mới sai quan vào Thuận Hóa đòi tiền thuế từ ba năm về trước. Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Chúa Trịnh lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ Chúa Sãi cho con ra chầu, và đòi nộp 30 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu.

Chúa Trịnh thấy vậy, bèn quyết ý đánh họ Nguyễn. Tháng 3 năm 1627, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5000 quân đi làm tiên phong vào đóng ở xã Hà Trung (tục gọi là Cầu Doanh), còn Chúa Trịnh Tráng thống lãnh 20 vạn đại quân thủy bộ, hai đạo tiến vào hội binh ở cửa Nhật Lệ.

Chúa Sãi cử các tướng Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Phúc Vệ và Nguyễn Phúc Trung đón đánh.

Quân Trịnh chủ động tấn công nhưng không chọc thủng được tuyến phòng thủ của quân Nguyễn. Phía Nguyễn có lợi thế là đại bác kiểu Bồ Đào Nha nên làm quân Trịnh sợ chạy dạt. Hai tướng Trịnh là Nguyễn Khải và Lê Khuê đều thua chạy.

Trong lúc hai bên tiếp tục giằng co thì tướng Nguyễn Hữu Dật phao tin ở miền Bắc, Trịnh Gia và Trịnh Nhạc mưu phản. Chúa Trịnh Tráng nghi ngờ vội rút quân về bắc.

Năm 1630, Chúa Sãi đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc cho vua Lê - chúa Trịnh và khuyên nên đánh lấy đất Nam Bố Chính để lấy sông Gianh làm biên giới phòng thủ tự nhiên (09-1630).

   - Cuộc chiến thứ hai (1633)

Khi quân Trịnh thu quân, Chúa Sãi theo kế của Đào Duy Từ gấp rút xây lũy Trường Dục (lũy Thầy) để phòng thủ.

Năm 1631, con trưởng của Sãi vương là Nguyễn Phúc Kỳ qua đời, con thứ hai là Nguyễn Phúc Lan được làm Thế tử, con thứ tư là Nguyễn Phúc Anh ra thay Kỳ trấn giữ Quảng Nam. Anh bất mãn vì không được lập làm thế tử, cho nên mưu thông đồng với chúa Trịnh, bèn viết thư hẹn làm nội ứng cho Trịnh Tráng.

Năm 1633, Thanh Đô Vương Trịnh Tráng rước vua Lê đem binh nam tiến lần thứ hai, đóng ở cửa Nhật Lệ như trước. Sãi vương cử Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến làm tướng ra đánh. Chúa Trịnh đang đợi suốt hơn 10 hôm không thấy hiệu làm nội ứng của Phúc Anh thì bị quân Nguyễn đánh úp, quân Trịnh hoảng loạn tan vỡ bỏ chạy. Thanh Đô Vương rút về bắc, để lại con rể là Nguyễn Khắc Liệt trấn thủ châu Bắc Bố Chính.

   - Hội An

Nhà Chúa Nguyễn Đàng Trong đã chú trọng phát triển ngoại thương, tận dụng ưu thế địa lý, yếu tố chính trị như nằm trên lối ra vào giao thương đường thủy Đông Á với phương Tây, Mạc Phủ Nhật Bản phải dùng Châu Ấn Thuyền để qua đây giao dịch mua bán hàng hoá (do nhà Minh cấm mua bán với Nhật Bản).

Chúa Nguyễn đã lập ở Hội An 1 hệ thống hành chính hoạt động rất hiệu quả (đặt tại Dinh trấn Thanh Chiêm) cách Hội An khoảng 10 km. Chính sách định cư lúc đó thoáng hơn cả. Người Nhật, người Hoa được định cư lâu dài, được lập phố riêng, gọi là phố Khách, phố Nhật. Thậm chí người Nhật, người Hoa được lập khu hành chính riêng, tự quản. Năm 1618, vị thị trưởng phố Nhật ở Hội An đầu tiên được Chúa Nguyễn công nhận là một chủ tàu kiêm nhà buôn tên là Furamoto Yashiro. Trong 19 địa điểm người Nhật đến buôn bán thì có 4 nơi họ được lập phố riêng.

Giáo sĩ Christoforo Borri đã cư trú tại Hội An năm 1618 miêu tả đô thị:

Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam...

"Thành phố rộng rãi, có thể nhận ra hai khu vực, một khu vực do người Hoa ở, khu vực kia thì người Nhật Bản ở"

"Người Hoa và Nhật Bản là những thương nhân chủ yếu của chợ phiên, năm nào cũng mở và kéo dài trong bốn tháng. Người Nhật thường đem lại 4, 5 vạn nén bạc, người Trung Hoa thì đi một thứ thuyền buồm đem lại nhiều tơ lụa tốt và sản vật đặc biệt của họ".

"Do chợ này mà Quốc vương thu được số tiền thuế lớn, toàn quốc nhờ vậy cũng được nhiều lợi ích".

Đối ngoại

Lan Xang

Tháng 4, năm Tân Dậu (1621), bọn thổ mục Lục Hoàn (tức Lạc Hòn) thuộc Lan Xang thả quân qua sông Hiếu sang cướp bóc ở biên thùy, Sãi vương sai Tôn Thất Hòa đi đánh.

Hòa chia quân phục ở các đường trọng yếu, sai những lái buôn mua bán để nhử. Quả nhiên quân Man đến cướp nhưng bị phục binh bắt được hết đem về. Chúa muốn lấy ân tín vỗ về người đất xa, bèn sai cởi hết trói và thả về nên làm người Man cảm phục, từ đấy họ không quấy nhiễu nữa.

Chân Lạp

Về cuộc Nam tiến, Chúa Sãi dùng chính sách hoà bình với Chân Lạp (Campuchia). Năm 1620, ông chấp nhận lời hỏi cưới con gái ông của quốc vương Chân Lạp là Chey Chetta II, gả con gái là Ngọc Vạn cho Chey Chettha II. Chey Chetta II đã xin chúa viện trợ vũ khí và quân đội để chống lại sự đe dọa của Xiêm La (Thái Lan). Trên thực tế thì Chúa Sãi đã chuẩn bị vũ khí và mộ binh giúp vua Chân Lạp, cung cấp cho ông này thuyền chiến và quân binh để cầm cự chống Xiêm.

Chúa Sãi hai lần giúp con rể Chey Chetta II đẩy lui quân Xiêm sang xâm lược. Giáo sĩ người Ý tên Christoforo Borri ở Quy Nhơn đã nhìn thấy viện binh từ Đàng Trong tiến sang Cao Miên, nên đã ghi lại trong cuốn Hồi ký của mình (xuất bản năm 1631) như sau:

Chúa Nguyễn luôn luyện tập binh sĩ và gởi quân đội giúp vua Cao Miên, tức chàng rể chồng của con chúa. Chúa viện trợ cho vua Cao Miên thuyền bè, binh lính để chống lại vua Xiêm...

Năm 1623, một sứ bộ Đàng Trong được cử tới Oudong, đem theo thư cùng nhiều tặng phẩm để tỏ tình thân hữu và bảo đảm sự ủng hộ của triều đình chúa Phúc Nguyên, và đã thương lượng thành công với vua Chey Chettha II, được chấp thuận nhượng vùng đất Mô Xoài, lập 2 thương điểm (đồn thu thuế) là Kas Krobei và Prei Nokor để tiến hành thu thuế.

Triều đình Đàng Trong còn phái tướng lĩnh đem quân đóng đồn binh ở Prei Nokor để bảo vệ lưu dân người Việt làm ăn, buôn bán, khai hoang và đồng thời giúp chính quyền Chân Lạp gìn giữ trật tự. Khi Chey Chetta II mất, vùng đất từ Prei Nokor trở ra Bắc đến biên giới Chiêm Thành (tức là Sài Gòn, Biên Hòa, Bà Rịa ngày nay) đã có nhiều người Việt đến ở và khai thác đất đai.

Chăm Pa

Năm 1629, Lưu thủ Phú Yên là Văn Phong liên kết với người Chăm Pa nổi lên chống lại chúa Nguyễn.

Địch đã tập kết binh lực tại các căn cứ trên đất Kauthara (Bắc Khánh Hòa ngày nay) gần khu vực biên thùy tiếp giáp phủ Phú Yên của Đàng Trong, đại quân hai đường thủy bộ khẩn trương xuất kích.

Lũy Choại nằm ở bờ Nam sông Đà Diễn là một trong những tiền đồn kiên cố quân Nguyễn dựng lên từ thời Lương Văn Chánh mà cánh quân bộ của Chăm Pa phải dùng đại bác Bồ Đào Nha và voi chiến để vượt qua. Còn đoàn chiến thuyền sau khi tập kích yểm trợ bộ binh vượt sông ở cửa sông Đà Diễn, đã nhanh chóng tiến lên phía Bắc vào cửa biển Bà Đài. Tại đây, Văn Phong và lực lượng nội ứng của ông ta nhận được sự tiếp chiến của đại quân người Chăm, đã làm chủ phủ lỵ Hội An nằm kề trên bờ vịnh. Phủ Qui Nhân phía Bắc núi Cù Mông đặt trong tình trạng khẩn cấp, huy động binh thuyền ra cửa Thi Nại chặn đường tiến của hạm đội Chăm Pa và Văn Phong.

Tin Văn Phong làm phản về đến dinh Chúa. Do quân Trịnh có thể đánh bất cứ lúc nào, nguy cả mặt trên và dưới nên buộc Chúa Sãi phải tạm nhận sắc phong của sứ giả triều đình Lê – Trịnh và nhận lệnh chỉ ra Đông Đô đánh quân Mạc.

Chúa Sãi cử Phó tướng Nguyễn Hữu Vinh đem quân dẹp yên, và đổi phủ Phú Yên thành dinh Trấn Biên.

Quân Trịnh đã không mở cuộc tấn công như mật tin tình báo, sau vài trận giao tranh thăm dò, nhận thấy binh lực đối phương có phần áp đảo, Văn Phong điều đình với các tướng lĩnh Chăm, để bảo toàn lực lượng đã cho quay về phòng thủ tại phía Nam dãy Đại Lĩnh. Văn Phong đã mang theo những thủ lĩnh, lãnh chúa địa phương mà ông hợp tác và đội quân do ông tập hợp được về với Chăm Pa cùng nhiều kho tàng, của cải.

Từ cuối thế kỷ 16, người Chăm phát triển ngoại thương rất mạnh, thường buôn bán với người Trung Hoa, Hà Lan, nhất là Bồ Đào Nha ở Ma Cao. Thương thuyền Bồ Đào Nha hay ghé buôn bán trao đổi với người Chiêm ở hải cảng Cam Ranh và Phan Rang. Sự liên hệ này khiến chúa Sãi lo ngại người Chăm sẽ liên kết với Bồ Đào Nha, để chống lại mình.

Năm 1631, chúa gả con gái là Ngọc Khoa (có sách gọi là Ngọc Hoa) cho vua Chăm Pa là Po Rome. Cuộc hôn phối này làm quan hệ Việt - Chăm diễn ra tốt đẹp. Sự kiện này tạo sự ổn định cho Đàng Trong ở mặt phía Nam, giúp cho chúa Nguyễn có thể tập trung lực lượng để đối phó trước các cuộc tấn công của chúa Trịnh Đàng Ngoài.

Nhật Bản

Thời Chúa Phúc Nguyên giao thương Việt - Nhật càng mở mang phát triển hơn. Chúa cho người Nhật mở thương điếm tại Hội An. Chúa đích thân viết thư mời các thương nhân nước ngoài vào làm ăn tại Hội An.

Năm 1634, Chúa Sãi gửi thư cho thương gia người Nhật là Toba, ông này được Chúa nhận làm con nuôi.

Năm 1619, Chúa Sãi gả một con gái của mình cho Araki Sutaru - một thương nhân người Nhật làm chủ cửa hàng lớn ở Hội An, và có tàu viễn dương. Nhằm nhờ tàu của Araki đi mua kim loại, diêm tiêu từ Áo Môn, Quảng Đông và Trường Kỳ về. Nhờ vậy mà quân đội của chúa Nguyễn được trang bị rất đầy đủ và chống đỡ được các cuộc tấn công của quân Trịnh.

2 ông con nuôi và con rể của Chúa Phúc Nguyên này đã cầm đầu 17 chiếc thuyền trong tổng số 84 chiếc thuyền buôn của Nhật đến Đàng Trong từ năm 1604-1635.

Chúa Nguyễn cũng có 1 loạt các bức thư trao đổi về ngoại giao và thương mại với chính quyền Mạc phủ Tokugawa (Nhật Bản) thời bấy giờ. Những văn bản An Nam Quốc Thư này hiện lưu trữ tại National Archives of Japan (国立公文書館).

Từ năm 1604 đến năm 1634 (Nguyễn Phúc Nguyên được giao là Trấn thủ dinh Quảng Nam năm 1602), Mạc phủ đã cấp 130 giấy phép đến 6 cảng thuộc khu vực tương đương với Việt Nam hiện nay. Riêng cảng Hội An có 86 thuyền được cấp giấy phép chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á, gấp gần 5 lần tỷ số bình quân chung trong khu vực, chiếm 66,15% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Việt Nam, gấp 6 lần tỷ số bình quân chung cho Việt Nam.

Các sự kiện khác

- Năm 1624, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên gửi thư và tặng vật cho Toàn quyền Hà Lan ở Nam Dương (Indonesia ngày nay) ngỏ lời mời thuyền buôn Hà Lan qua lại buôn bán với Đàng Trong.

- Cuối năm 1624, Linh mục Alexandre de Rhodes và 6 giáo sĩ dòng Tên đến Hội An. Năm 1634, Chúa Sãi ra lệnh cấm truyền bá đạo Công giáo.

- Năm (1631 - 1636), các tàu biển thuộc Công ty Đông Ấn Hà Lan bị nạn tại quần đảo Hoàng Sa (thời đó gọi là Pracel) thuộc xứ Đàng Trong thời Chúa Phúc Nguyên có ghi chép như sau:

"Ngày 20 tháng 7, các tàu này rời Vịnh Đà Nẵng, ngày 21 thì gặp bão ngoài khơi, nên lạc nhau. Chiếc tàu Vin-hu-zen tới Đài Loan ngày 2 tháng 8, chiếc Scha-zen tới ngày 10 cùng tháng. Riêng chiếc Grootebroek bị đắm gần đảo Paracel ở vĩ tuyến 17° Bắc. Thương gia Jean de Sormeau cùng 8 thủy thủy đoàn đã hy sinh. Trong số hàng hóa trị giá 153.690 florins, thì số hàng hóa chìm cùng tàu là 70.695 florins. Phần còn lại được thủy thủ cứu và cất dấu nơi an toàn tại đảo. Thuyền trưởng Huijich Jansen và 12 thủy thủ đi bằng thuyền nhỏ vào duyên hải xứ Đàng Trong...

Thuyền trưởng Jansen làm báo trình về việc thuyền Grootebroek bị đắm tại Paracels và sự tịch thu 23.580 réaux bởi nhà chức trách xứ Đàng Trong.

Qua đời

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên qua đời vào ngày 19 tháng 11, năm 1635, hưởng thọ 73 tuổi. Lăng mộ táng tại Sơn Phận, huyện Quảng Điền; sau cải táng về vùng núi Hải Cát, Hương Trà, Thừa Thiên. Tên lăng là Trường Diễn. Ông được truy tôn làm Thụy Dương vương (瑞陽王).

Con trai ông là Nguyễn Phúc Lan lên kế nghiệp, tức chúa Thượng (上主).

Năm 1744, Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát kế vị, truy tặng ông miếu hiệu là Tuyên Tổ (宣祖), thụy hiệu cải thành Hiển Mô Quang Liệt Ôn Cung Minh Duệ Dực Thiện Tuy Du Hiếu Văn vương (顯謨光烈溫恭明睿翼善綏猷孝文王).

Gia quyến

- Thân phụ: Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, sau thụy tôn làm Thái Tổ Gia Dụ hoàng đế (太祖嘉裕皇帝).

- Thân mẫu: Nguyễn phu nhân (阮夫人), sau thụy tôn làm Từ Lương Gia Dụ hoàng hậu (慈良嘉裕皇后).

- Phu nhân: Mạc Thị Giai (莫氏佳), sau thụy tôn làm Huy Cung Hiếu Văn hoàng hậu (徽恭孝文皇后).

- Hậu Duệ:

1. Khánh Quận công Nguyễn Phúc Kỳ [阮福淇; ? - 1631], trấn thủ Quảng Nam.

2. Nguyễn Phúc Lan [阮福瀾], tức Thần Tông Chiêu hoàng đế (神宗昭皇帝).

3. Nguyễn Phúc Anh [阮福渶], khi Thần Tông lên ngôi, làm phản, bị giết.

4. Nguyễn Phúc Trung [阮福忠].

5. Nguyễn Phúc An [阮福安].

6. Nguyễn Phúc Vĩnh [阮福永].

7. Nguyễn Phúc Lộc [阮福淥].

8. Nguyễn Phúc Tứ [阮福泗].

9. Nguyễn Phúc Thiệu [阮福劭].

10. Nguyễn Phúc Vinh [阮福榮].

11. Nguyễn Phúc Đôn [阮福敦].

12. Nguyễn Phúc Ngọc Liên [阮福玉蓮], Tục gọi bà là Quận Thanh. Năm 1629, bà hạ giá lấy Trấn Biên dinh Lưu thủ Phó tướng Thanh Lộc hầu Mạc Cảnh Vinh (Nguyễn Phước Vinh), con trai Khai quốc công thần Mạc Cảnh Huống, hậu duệ của Mạc Đăng Dung. Ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Hữu gốc Mạc, con cháu nay đổi họ Nguyễn Trường nhập tịch ở Quảng Nam. Ông bà sinh 1 con trai là Đội trưởng Toàn Trung hầu Nguyễn Phước Tao.

13. Nguyễn Phúc Ngọc Vạn [阮福玉万], Tống Sơn quận chúa, thụy Từ Hoan, pháp hiệu Diệu Đức.

14. Nguyễn Phúc Ngọc Khoa [阮福玉姱].

15. Nguyễn Phúc Ngọc Đỉnh [阮福玉鼎; 1608 - 1684], năm 1623 bà hạ giá lấy Nghĩa quận công Nguyễn Cửu Kiều (1599-1656), con trai của Thượng tướng Nguyễn Quảng triều nhà Hậu Lê. Bà sinh 5 con trai: Vỵ Xuyên hầu Nguyễn Cửu Thiên, Duyên Lộc hầu Nguyễn Cửu Duyên, Trấn quận công Nguyễn Cửu Ứng, Dực Đức hầu Nguyễn Cửu Kế, Cẩm Long hầu Nguyễn Cửu Thân. Khi mất bà được ban thụy là Từ Thục. Ông và bà lập ra hệ tính Nguyễn Cửu.

Nhận định

Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên là nhân vật có vai trò then chốt trong cuộc nội chiến Trịnh- Nguyễn. Một cuộc nội chiến ác liệt, kéo dài và không phân thắng bại; nó tiêu huỷ sức người, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt sự thống nhất của quốc gia Đại Việt. Nhưng chế độ Đàng Trong của chúa Nguyễn đã thực thi những chính sách cai trị cách tân, khác với Đàng Ngoài, lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ Nho giáo thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan cuộc nội chiến có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc. 

Ông đã tạo nên 1 nền ngoại thương hàng hải mạnh, với thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính không chỉ của Đàng Trong mà trên toàn khu vực tương đương với Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay.

Ông là vị chúa đầu tiên xây dựng cơ nghiệp Đàng Trong của nhà Nguyễn với ý chí cương quyết, tạo nên một xứ Đàng Trong độc lập, tự chủ. Ông đã chỉnh đốn việc cai trị, củng cố quốc phòng, biết dùng người tài để chăm lo việc nước nên nhân dân được an cư lạc nghiệp. Ngoài ra, ông còn đẩy lui được các cuộc tấn công của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài.

Xem thêm: Lũy Thầy (Lũy Đào Duy Từ)


Tổng số thành viên: 19605
Thành viên mới nhất: Michell Nguyen
Đang trực tuyến: 6
Lượt truy cập: 4364908