Trang chủ -> Danh nhân Việt Nam -> NGUYỄN PHÚC THÁI (22/1/1649 – 7/2/1691)
 04/06/2015 11:50


NGUYỄN PHÚC THÁI (22/1/1649 – 7/2/1691)


Nguyễn Phúc Thái
(chữ Hán: 阮福溱, 22 tháng 1, năm 1649 - 7 tháng 2, năm 1691), còn gọi là Nguyễn Anh Tông (阮英宗), là chúa Nguyễn thứ 5 của chính quyền Đàng Trong trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ năm 1687 đến năm 1691, chỉ trong vòng 4 năm, ngắn nhất trong các đời chúa Nguyễn từng cai trị ở Đàng Trong.

Đương thời ông nhận phong hiệu Hoằng Quốc công (弘國公), dân chúng và quan lại trong vùng lãnh thổ gọi ông là chúa Nghĩa (主義).

Năm 1806, Nguyễn Thế Tổ Gia Long hoàng đế dâng miếu hiệu cho ông là Anh Tông (英宗), thụy hiệu là Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoan Hồng Bác Hậu Ôn Huệ Từ Tường Hiếu Nghĩa Hoàng Đế (紹休纂業寬洪博厚溫惠慈祥孝義皇帝).

Thân thế

Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần có hai phu nhân, một bà chánh thất tên Chu Thị Viên (朱氏媛), một bà thứ thất tên Tống Thị Đôi (宋氏堆). Nguyễn Phúc Thái là con của bà Tống thị và là con lớn thứ 2 trong gia đình.

Năm 1685, người con trai cả là Nguyễn Phúc Diễn (阮福演), con của bà chánh thất Chu thị, qua đời sớm. Chúa Hiền cho rằng Nguyễn Phúc Thái tuy là con bà hai song lớn tuổi lại hiền đức nên phong làm Tả thủy dinh phó tướng Hoằng Ân hầu, làm phủ đệ tại dinh Tả thủ.

Năm 1687, Chúa Hiền qua đời. Thế tử Nguyễn Phúc Thái đã 39 tuổi được nối ngôi, triều thần tôn làm Tiết Chế Thủy Bộ Tư Dinh Kiêm Tổng Nội Ngoại Binh Chương Quân Quốc Trọng Sự Thái Phó Hoằng Quốc Công.

Điều hành Đàng Trong

Chúa Nghĩa là người nổi tiếng rộng rãi, giảm nhẹ hình phạt, thuế khoá, trọng dụng quan lại cũ, trăm họ đều vui mừng.

Chúa quy định lại tang phục cho có lợi, bởi vì vào thời ấy, mỗi khi có quốc tang thì người dân dù người già, trẻ con đều la khóc kêu gào, bỏ việc đồng áng, lao động. Chúa quy định người trong tông thất và thân trần để tang 3 năm; cai đội trở lên để tang 2 tuần; Nội ngoại đội chưởng, văn chức, câu kê để tang đến giỗ đầu; còn quân dân để tang đến Tết Trung nguyên (Rằm tháng Bảy).

Tháng 7, năm 1687, Chúa Nghĩa dời dinh phủ Chúa sang làng Phú Xuân, lấy Bằng Sơn (nay là Ngự Bình) làm bình phong, xây đắp cung điện, thành quách rất tráng lệ. Vùng Phú Xuân rộng rãi bề thế hơn Kim Long, sông Hương trở nên rộng khi chảy ngang qua trước kinh thành và nơi này trở thành Kinh Đô của triều Nguyễn sau này và được gọi là chính dinh. Chỗ phủ củ ở làng Kim Long (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) trở thành Thái Tông miếu, thờ chúa Hiền.

Đối ngoại

Chân Lạp

Tháng 6 năm 1688, Phó tướng Long Môn là Hoàng Tấn sinh lòng kiêu mạn, y cầm quân tấn công giết Dương Ngạn Địch ở cửa biển Mỹ Tho, xưng làm tướng quân Long Môn, rồi dời đến đóng ở xứ Rạch Năn (thuộc huyện Kiến Hòa, trấn Định Tường), chiếm cứ vùng hiểm yếu, đắp lũy, đóng thuyền chiến, đúc thêm súng lớn, không cho thương nhân qua lại, quấy nhiễu cướp bóc người Cao Miên.

Chính vương Nặc Ông Thu oán giận, bỏ việc triều cống chúa Nguyễn, đắp lũy Bích Đôi (Gò Bích), Cầu Nam, Nam Vang, lại kết bè nổi ở sông Cầu Nôm và giăng dây thép chắn ngang cửa sông để cự thủ.

Phó vương Nặc Nôn đang đóng giữ Sài Côn vội tâu lên hết mọi chuyện. Tháng 10, triều đình sai Phó tướng dinh Thái Khang là Mai Vạn Long làm Thống suất, Cai cơ trấn Biên Nguyễn Thắng Long và Nguyễn Hữu Lễ làm Tả hữu vệ, Văn Vị Xuyên làm Tham mưu cầm quân đi chinh phạt Hoàng Tấn, đồng thời ủy cho quyền mưu tính việc mở mang biên cương.

Tháng 1 năm 1689, quan quân kéo đến đóng ở Rạch Gầm (thuộc thôn Kim Sơn, huyện Kiến Đăng, trấn Định Tường) rồi nói thác là đi đánh Nặc Thu, giả bộ ra triệu cho Hoàng Tấn đem quân sở bộ đến để làm tiên phong, nhưng Hoàng Tấn không đến.

Văn Thông dâng kế với Mai Văn Long, giả làm ông già họ Trương để dụ Hoàng Tấn ra hàng, Hoàng Tấn tin lời đi thuyền ra sông đến hội binh, quân Hoàng Tấn đang ở giữa sông bị phục binh 4 phía đánh vào và phá hết đồn trại của Hoàng Tấn. Hoàng Tấn bỏ thuyền chạy về hướng cửa biển Lôi Lạp. Vợ con Tấn trong lũy đều bị chém cả, đội quân Long Môn được chiêu dụ, những kẻ bị Tấn bắt ép phải theo đều được tha thứ.

Quan quân thừa thế tiến đánh Nặc Thu, giao cho tướng sĩ Long Môn Trần Thượng Xuyên làm tiên phong, đốt hết dây thép chắn ngang sông, tiến công chiếm được ba lũy Cầu Nôm, Nam Vang và Gò Vách.

Nặc Thu rút quân lui về giữ thành Oudong (Long Úc). Nguyễn Thắng Quyền khinh địch ham tiến bị Ông Thu đánh bại, Nguyễn Thắng Sơn đem quân đến cứu, xông trận đánh hăng, buộc Nặc Thu rút vào thành cố thủ. Rồi lập mưu sai nữ sứ giả là Chiêm Dao Luật đến xin hàng và đề nghị quan quân rút lui để họ chuẩn bị lễ vật cống hiến. Thực ra ấy là mưu kế để họ kịp mộ binh tiếp viện tính việc chống cự. Mai Vạn Long nhẹ dạ tin theo rồi cho lui quân về đóng ở Bến Nghé (nay là chợ Điều Khiển).

Đã hơn một năm trôi qua mà Nặc Thu không chịu tiến cống, lúc ấy lại bỗng xảy ra bệnh dịch, quân sĩ nhiều người bị bệnh và chết, Cai cơ Nguyễn Thắng Sơn cùng các tướng làm tờ tấu đàn hạch Mai Vạn Long về tội chần chừ làm hỏng quân cơ.

Mùa đông năm 1689, triều đình sai Cai cơ Nguyễn Hữu Hào làm thống suất, Hòa Tín làm Tham mưu, Cai đội Nguyễn Thắng Sơn hầu làm Tiên phong, tuyển lựa tinh binh ở các xứ Phú Yên, Thái Khang và Phan Rí để tiến đánh Cao Miên, rồi cho bắt trói bọn Vạn Long hầu cùm đưa về kinh sư. Sau đó triều đình miễn chức Vạn Long hầu cho về làm thường dân, giáng Vị Xuyên hầu xuống làm tướng thần thuộc lại.

Nguyễn Hữu Hào tiến quân đóng ở Bích Đôi, cho dựng lũy, sắp xếp quân thủy bộ. Rồi sai người đến chỗ Nặc Thu yêu cầu bắt cống nộp, nhưng Nặc Thu lại giở trò lần lữa như trước chỉ tiến cống một phần.

Tháng 3 năm 1690, Nguyễn Hữu Hào đánh thắng Cao Miên, bắt vua Cao Miên là Nặc Thu đem về Sài Côn rồi nghỉ quân, Cao Miên từ đó mới bình định.

Sau đó Nặc Thu bị bệnh mất, Nặc Non cũng mất, các tướng tâu lên rằng dòng đích của vua Cao Miên không còn ai, do đó triều đình phong cho con Nặc Non là Nặc Yêm làm vua và lệnh cho đóng ở thành Gò Vách. (Sử Cao Miên ghi niên hiệu Thiên Vận (1622) là năm Thìn, Nặc Yêm con của Nặc Non là Tham - đích - sá - chiêu - trùy lên làm vua, so ra thời đại và tên gọi khá phù hợp nhưng tháng năm thì sai khác, điều đó còn cần khảo cứu thêm).

Qua đời

Ngày 7 tháng 2, năm 1691, Chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Thái qua đời, chỉ thọ 43 tuổi. Lăng mộ táng tại núi Kim Ngọc (Định Môn, Hương Trà, Thừa Thiên). Tên lăng là Trường Mậu lăng (長茂陵). Ông được tôn thụy là Thiệu Hưu Toản Nghiệp Hoằng Nghĩa Vương (紹休纂業弘義王).

Đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát, ông được cải thụy hiệu thành Thiệu Hư Toản Nghiệp Khoang Hồng BÁc Hậu Từ Tường Hiếu Nghĩa Vương (紹休纂業寬洪博厚溫惠慈祥孝義王).

Con trai ông là Nguyễn Phúc Chu lên kế nghiệp, tức chúa Minh.

Gia quyến

- Thân phụ: Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần, sau được thụy tôn thành Thái Tông Hiếu Triết hoàng đế (太宗孝哲皇帝).

- Thân mẫu: Tống Thị Đôi (宋氏堆), sau được dâng thụy là Từ Tiên Hiếu Triết hoàng hậu (慈僊孝哲皇后).

- Phu nhân: Tống Thị Lĩnh (宋氏嶺; 1653 - 1696), quê quán ở huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, con gái quan Thiếu phó Quận công Tống Phúc Vinh, mẹ bà họ Lê. Bà vào hầu Nghĩa vương nơi tiểm để, sau được phong lên bậc Cung tần. Lúc bà có thai, có nhiều điềm lành cho biết sẽ sinh ra bậc kỳ tài. Khi sinh, ánh sáng lành rực rỡ khắp nhà, sau này là Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu. Khi mất, được phong tặng là Quốc Thái Phu Nhân (國太夫人), táng ở làng Định Môn (Hương Trà, Thừa Thiên). Gia Long hoàng đế truy tôn Từ Tiết Tĩnh Thục Tuệ Mẫn Hiến Thuận Hiếu Nghĩa Hoàng Hậu (慈節靜淑惠敏憲順孝義皇后), đặt tên lăng là Vĩnh Mậu. Bà được phối thờ với đức Anh Tông ở Thái Miếu, án thứ hai bên hữu.


Tổng số thành viên: 19604
Thành viên mới nhất: Mỹ Duyên
Đang trực tuyến: 2
Lượt truy cập: 4364628