Trang chủ -> LỊCH SỬ VIÊT NAM -> Chương XI. Nhà Hậu Lê (1407 - 1789) - NHÀ LÊ TRUNG HƯNG (1533 - 1789) - CHIẾN TRANH LÊ-MẠC (1533 - 1677)
 09/12/2014 01:16


CHIẾN TRANH LÊ-MẠC (1533 - 1677)


Nội chiến Lê-Mạc
(1533-1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là thời kỳ Phù Lê Diệt Mạc.

Chiến tranh chia làm hai thời kỳ lớn:

- Thời kỳ 1533-1592: tương đương với thời Nam-Bắc triều khi nhà Mạc làm chủ vùng Bắc Bộ Việt Nam, nhà Lê làm chủ khu vực từ Thanh Hóa trở vào

- Thời kỳ 1593 - 1677: khi tàn dư họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng cát cứ.

Hoàn cảnh

Nhà Hậu Lê sau thời thịnh trị cuối thế kỷ 15 đã bắt đầu suy yếu từ thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực. Bên ngoài, các cuộc khởi nghĩa chống đối của nhân dân làm triều đình nghiêng ngả, điển hình là khởi nghĩa của Trần Cảo. Các tướng trong triều cũng chia bè phái đánh lẫn nhau. Một số tướng lĩnh lập ra vua khác để ly khai triều đình, hình thành các thế lực cát cứ như Trịnh Duy Đại, Trịnh Tuy.

Một võ tướng nhà Lê là Mạc Đăng Dung đứng ra trấn áp các cuộc nổi dậy bên ngoài, nắm lấy quyền hành triều Lê. Vua Lê Chiêu Tông chạy trốn khỏi sự khống chế của Đăng Dung, kêu gọi các lực lượng quân phiệt khác "cần vương" nhưng cuối cùng đều bị Đăng Dung đánh bại. Vị vua cuối cùng của nhà Lê Sơ là Lê Cung Hoàng - con bài chính trị được Đăng Dung dựng lên để chống Lê Chiêu Tông - bị phế truất năm 1527. Mạc Đăng Dung chính thức giành ngôi nhà Lê, lập ra nhà Mạc.

Sau khi nhà Mạc lên nắm quyền, đã có một số hoạt động chống đối chính quyền như cầu viện nhà Minh nhưng đều không thành hoặc nổi dậy của hoàng thân Lê Ý nhưng thất bại nhanh chóng. Chỉ đến khi nhà Hậu Lê tái lập thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.

Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn Kim không thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập hợp lực lượng chống nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của vua Lê Chiêu Tông đưa lên ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông.

Chiến tranh Lê-Mạc chính thức bùng nổ.

Nhà Hậu Lê về nước

Từ trước khi lập Trang Tông, Nguyễn Kim đã từng tự mình mang quân về mưu đánh chiếm Thanh Hóa. Đầu năm 1531, Nguyễn Kim từ Ai Lao mang quan về đánh Thanh Hoá. Mạc Thái Tông sai Tây quận công Nguyễn Kính vào đánh. Hai bên giao tranh, Nguyễn Kính bị thua hai trận. Nhưng tới tháng 9, trời đổ mưa nhiều làm nước sông dâng cao, Nguyễn Kính thừa cơ dùng thuỷ quân tiến đánh, quân Nguyễn Kim rối loạn phải rút về Ai Lao.

Sau khi lập Trang Tông, Nguyễn Kim sai người nhân danh Trang Tông liên kết với vua Ai Lao là Xạ Đẩu, nhờ họ giúp binh khí, lương thực để mưu việc đánh lấy lại nước, mặt khác tiếp tục sai người sang cầu viện nhà Minh.

Từ khi Lê Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc, trong đó có một số tướng sĩ nhà Mạc cũng sang hàng Lê.

Năm 1539, Nguyễn Kim chiếm được huyện Lôi Dương ở Thanh Hóa; sang năm sau tiến quân vào Nghệ An, có nhiều người hàng phục. Nhà Hậu Lê bắt đầu xác lập chỗ đứng trở lại trên lãnh thổ Đại Việt.

Thay đổi nhân sự hai bên

Ngoài Trịnh Duy Liêu được Nguyễn Kim sai vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc, chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên Quang cũng sai người sang tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi. Minh Thế Tông giao quân cho Mao Bá Ôn và Cừu Loan tiến áp sát biên giới. Trong lúc đó thì Mạc Thái Tông qua đời, thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu là Mạc Hiến Tông lên ngôi. Để tránh đổ máu, Mạc Đăng Dung chấp nhận đầu hàng nhà Minh để tập trung đối phó với nhà Lê phía nam.

Ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung tự trói mình đến dâng biểu xin hàng quân Minh. Nhà Minh chấp nhận và rút quân, nhưng Đại Việt bị hạ từ An Nam quốc xuống An Nam Đô thống sứ ty. Năm sau (1541), Mạc Đăng Dung qua đời.

Nhân lúc nhà Mạc gặp khó khăn, Lê Trang Tông thân hành tiến quân ra từ thành Tây Đô. Tướng Mạc là Trung Hậu hầu Dương Chấp Nhất ra hàng. Trang Tông sai người triệu Nguyễn Kim ở Ai Lao về, gia thăng Kim làm Thái tể, tiết chế tướng sĩ các dinh và chia đường tiến đánh vùng Tây Nam.

Năm 1545, Dương Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim ăn vào bị trúng độc chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền chỉ huy quân đội. Từ đó binh quyền Nam triều do họ Trịnh đảm đương.

Ở phía Tây Bắc, vùng Hưng Hoá và Tuyên Quang, anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc. Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng.

Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết, con là Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm Vương Mạc Kính Điển làm phụ chính. Bắc triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng Vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh không kiềm chế nổi. Đến năm 1551, Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị giết, Chính Trung bỏ chạy và cũng bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người Minh.

Năm 1548, Lê Trang Tông mất, con là Trung Tông lên thay. Năm 1551, tại Bắc triều, thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách, hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao cậy thế vua Mạc vây đánh Bá Ly. Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận cùng 14.000 quân chạy vào Thanh Hóa theo hàng Nam triều.

Sau khi mất Phạm Tử Nghi cùng hai nhà Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nhà Mạc bị tổn thất nghiêm trọng về nhân sự. Mạc Tuyên Tông trông cậy hết vào Khiêm vương Mạc Kính Điển.

Chiến sự giằng co

-  Chiến sự 1551

Có lực lượng của Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến, nhà Lê tổ chức tấn công ra bắc. Tháng 6 năm 1551, Trịnh Kiểm làm tổng chỉ huy, sai Lê Bá Ly và Vũ Văn Mật ra quân tấn công Thăng Long.

Trịnh Kiểm qua đò sông Thao đến An Lạc, cùng Vũ Văn Mật tấn công núi Hy, đánh thắng Mạc Kính Điển vài trận rồi tiến tới Xuân Canh, Lâm Hạ. Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang và Vũ Văn Mật chia 3 đường tiến đánh. Mạc Tuyên Tông bèn chạy đi Kim Thành, ủy thác cho chú Mạc Kính Điển làm Đô tổng súy, ở lại cầm quân ở Bồ Đề bảo vệ kinh đô.

Từ Bồ Đề về phía bắc, Mạc Kính Điển đắp lũy đất, đặt thuyền chiến, quân thủy và quân bộ xen kẽ nhau, phòng thủ rất nghiêm ngặt[8]. Quân Lê tiến vào dải tây nam gồm Thường Tín, Ứng Thiên, Quốc Oai và Quảng Oai. Các tướng Lê định rước vua Lê ra Thăng Long, nhưng Trịnh Kiểm cho rằng lực lượng nhà Mạc còn nhiều nên cùng Lê Bá Ly rút về Thanh Hóa, Vũ Văn Mật cũng trở về Tuyên Quang.

Quân Lê rút lui, Mạc Kính Điển chia quân đi chiếm lại những vùng bị mất, bộ binh đóng tại Yên Mô (Ninh Bình), thủy binh đóng ở cửa Thần Phù.

-  Chiến sự 1554

Năm 1554, Trịnh Kiểm lập hành dinh tại quê hương Biện Thượng, sau đó điều quân đánh Thuận Hóa.

Khi quân Lê tiến vào nam, các quan lại nhà Mạc và các hào trưởng địa phương phần lớn đi theo. Tướng Mạc ở Thuận Hóa là Hoàng Bôi mang quân ra đánh bị tử trận. Quân Mạc bị đánh tan, nhà Lê lấy lại được Thuận Hóa và Quảng Nam.

Toàn bộ lãnh thổ Đại Việt chính thức chia làm 2 nửa: từ Ninh Bình trở ra trong tay nhà Mạc, từ Thanh Hóa trở vào trong tay nhà Lê.

-  Chiến sự 1555

Sau khi ổn định tình hình, Mạc Kính Điển bắt đầu tổ chức tiến công vào Thanh Hóa.

Tháng 8 năm đó, Mạc Kính Điển sai Thọ quận công đem hơn 100 chiếc thuyền làm tiên phong, tiến đến cửa biển Thần Phù đóng dinh. Hôm sau, Kính Điển đem quân đến hội ở sông Đại Lại, sai Thọ quận công đốc suất quân bản bộ đi trước, đóng dinh ở núi Kim Sơn.

Trịnh Kiểm sai Lê Bá Ly, Nguyễn Khải Khang, Nguyễn Thiến, Lê Khắc Thận cùng mai phục sẵn ở phía nam sông, còn Trịnh Kiểm đích thân đốc suất đại quân mai phục ở phía bắc sông, chọn 50 con voi phục ở chân núi Kim Sơn; sai Phạm Đốc đem thuỷ quân cùng Nguyễn Quyện đem hơn 10 chiếc thuyền chiến chiếm cứ mạn thượng lưu từ sông Hữu Chấp đến sông Kim Bôi.

Trưa hôm sau, thuyền quân Mạc qua Kim Sơn, đến chợ Ông Cung. Trịnh Kiểm lệnh các đạo quân mai phục đổ ra đánh. Quân Mạc thua chạy. Thọ quận công nhảy xuống sông trốn, bị tướng Lê là Vũ Sư Thước bắt sống và sau đó bị chém. Quân Mạc bị bắt rất nhiều, quân Lê thu được nhiều khí giới. Mạc Kính Điển rút quân quay về kinh thành.

-  Chiến sự 1557

   *  Trận tháng 7

Năm 1556, Lê Trung Tông mất, Trịnh Kiểm định thay làm vua nhưng sau nghe theo lời Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lập người trong họ Lê là Duy Bang lên ngôi, tức là vua Anh Tông (xem chi tiết bài chúa Trịnh).

Tháng 7 năm 1557, Mạc Tuyên Tông sai Mạc Kính Điển đem quân đánh Thanh Hóa, Phạm Quỳnh và Phạm Dao vào đánh Nghệ An.

Mạc Kính Điển chia ra đóng ở sông Thần Phù và vùng Tống Sơn, Nga Sơn, đốt phá cầu phao. Trịnh Kiểm sai Thanh quận công ra giữ Nga Sơn, Hà Thọ Tường giữ Tống Sơn, quân Mạc không tiến lên được.

Trịnh Kiểm lại đích thân chỉ huy tượng binh, ngầm tiến đến chân núi Yên Mô thẳng tới cửa biển, rồi chia làm 2 cánh đánh úp quân Mạc. Tướng Lê là Vũ Lăng hầu nhảy lên thuyền Mạc Kinh Điển, chém chết người cầm dù. Mạc Kính Điển trở tay không kịp, vội nhảy xuống sông trốn thoát. Quân Mạc đại bại, bỏ thuyền chạy trốn vào núi rừng. Mạc Kính Điển chạy trốn vào hang núi ẩn náu 3 ngày, ban đêm thấy cây chuối trôi qua cửa hang, liền ôm chuối trôi theo dòng để tìm đường về.

Trịnh Kiểm phá tan quân của Mạc Kính Điển, tước lấy chiến thuyền, giả làm quân Mạc kéo vào đánh quân Phạm Quỳnh, Phạm Dao ở Nghệ An. Phạm Quỳnh, Phạm Dao không đề phòng, bị quân Lê đánh bại phải rút về.

   *  Trận tháng 9

Tháng 4 năm 1557, Lê Bá Ly qua đời. Tháng 9 năm đó, Nguyễn Thiến cũng qua đời. Hai con Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn trốn về với nhà Mạc. Mạc Tuyên Tông phong Nguyễn Quyện làm Văn Phái hầu, Nguyễn Miễn làm Phù Hưng hầu và gả con gái tông thất cho.

Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thuỷ bộ đánh ra Sơn Nam. Quân Lê qua sông Phụng Xí phá tan quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Khánh quốc công. Sau đó Trịnh Kiểm tự mình chỉ huy bộ binh, sai Phạm Đốc chỉ huy thuỷ quân cùng tiến, sai Vũ Lăng hầu làm Tiền Thuỷ đội.

Mạc Tuyên Tông sai Nguyễn Quyện mang quân ra chống giữ ở sông Giao Thuỷ, đánh nhau to với Vũ Lăng hầu. Vũ Lăng hầu nhảy sang mui thuyền của Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện cầm gươm chém, Vũ Lăng hầu nhảy xuống sông lặn đi. Nguyễn Quyện lại nhảy sang thuyền của Vũ Lăng hầu, chém được đầu của người cầm dù rồi hô lớn:

Đầu Vũ Lăng hầu đây, lũ chúng mày địch sao nổi ta!

Quân Lê nghe nói sợ hãi, không kịp ngoảnh lại nhìn, nhảy cả xuống sông. Toàn quân Lê tan vỡ, bỏ thuyền nhảy lên bờ tháo chạy. Quân Mạc thừa thắng đuổi đánh. Nhân dân các huyện đều hưởng ứng theo quân Mạc. Trịnh Kiểm vội rút quân.

Mạc Kính Điển sai tướng đem quân chặn lối về của Trịnh Kiểm, giết rất nhiều quân Lê. Chiến tướng nhà Lê trung hưng bị giết đến vài chục viên, thuyền bè, khí giới phải vứt bỏ hết. Trịnh Kiểm chạy thoát về chỉ còn non nửa số quân.

-  Chiến sự 1559-1562

Năm 1558, Trịnh Kiểm mang đại quân lại ra Sơn Nam đánh úp quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Anh Nhuệ hầu đưa về Yên Trường và chém.

Tháng 9 năm đó, Trịnh Kiểm lại ra quân đánh Sơn Nam chiếm đất rồi để Nguyễn Khải Khang ở lại trấn thủ để chiêu tập nhân dân. Nhà Mạc sai thổ dân ở Mỹ Lương trá hàng Khải Khang để dụ, rồi lừa bắt Khải Khang mang về. Mạc Tuyên Tông sai dùng hình xé xác Khải Khang.

Tháng 9 năm 1559, Trịnh Kiểm để Trịnh Quang, Lê Chủng, Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh cùng đem tinh binh trấn giữ cửa biển để phòng quân Mạc, còn mình chỉ huy hơn 6 vạn đại quân đi đánh Mạc. Quân Lê từ Thiên Quan ra Sơn Tây, nhiều người ra hàng phục.

Khi đến Tuyên Quang, Hưng Hoá thì Vũ Văn Mật đem quân đến hội. Hai bên hợp binh vượt sông đánh vào Thái Nguyên, Lạng Sơn, Kinh Bắc. Sau một thời gian hai bên cầm cự, Trịnh Kiểm lên đóng ở núi Tiên Du. Cuối năm 1559 sang đầu năm 1560, Trịnh Kiểm chia quân đi đánh phá các phủ Khoái Châu, Hồng Châu, các huyện Siêu Loại, Văn Giang, Nam Sách, Tiên Hưng đều giành thắng lợi.

Tháng 2 âm lịch năm 1560, Mạc Tuyên Tông sai tướng đem quân giữ thành Thăng Long. Quân Mạc đóng đồn một dải san sát với nhau từ dọc sông Nhị về phía tây, trên từ Bạch Hạc, dưới đến Nam Xang, dinh trại thuyền ghe liền nhau liên tiếp, ban ngày thì phất cờ dóng trống báo nhau cho nhau, ban đêm thì đốt lửa làm hiệu cho nhau để liều chết chống giữ với quân Lê Trịnh.

Trịnh Kiểm không thể đánh hạ nổi bèn chia quân cho các tướng đi đánh các huyện phía đông bắc là Đông Triều, Giáp Sơn, Chí Linh, An Dương, đều lấy được. Mạc Tuyên Tông phải chạy ra ở huyện Thanh Đàm.

Nam triều đã làm chủ hầu hết đất đai bờ bắc sông Hồng. Tháng 3 năm 1560, Trịnh Kiểm sai Hoàng Đình Ái đem quân trấn giữ Lạng Sơn, Lê Khắc Thận trấn giữ Thái Nguyên, Vũ Văn Mật trấn giữ Tuyên Quang, Đặng Định trấn giữ Hưng Hoá, chiêu tập dân cư 10 châu An Tây. Sang tháng 4, Trịnh Kiểm lại chia quân đi đánh phá các vùng Thanh Miện, Gia Phúc, Hồng Châu, Khoái Châu. Các huyện ở Hải Dương của nhà Mạc chấn động. Quân Mạc cầm cự qua năm sau, quân Lê vẫn không hạ được Thăng Long và Hải Dương.

Nhân lúc quân chủ lực Nam triều tập trung ngoài bắc, tháng 3 năm 1561, Mạc Kính Điển tập trung binh thuyền tấn công Thanh Hóa. Quân Lê bại trận, Vũ Sư Thước và Lại Thế Khanh đều bỏ dinh trại chạy về; Lê Chủng thì quân vỡ, tháo chạy, đem quân chạy vào Vạn Lại, Yên Trường.

Tháng 9 năm 1561, quân Mạc đánh vào cửa Yên Trường, đến Vạn Lại chuẩn bị chiếm kho nhà Lê. Vũ Sư Thước, Lại Thế Khanh hợp sức cố đánh, tung quân mai phục đánh thắng liền mấy trận, chém được hơn trăm thủ cấp quân Mạc. Quân Mạc tan vỡ tháo chạy. Quân Nam triều thừa thắng đuổi theo. Mạc Kính Điển phải rút quân về Thăng Long. Cùng lúc đó, Trịnh Kiểm nghe tin Thanh Hóa bị tấn công phải triệt thoái hết các cánh quân ở Bắc Bộ về. Quân Mạc tuy phải rút nhưng vùng Bắc Bộ của nhà Mạc và kinh thành Thăng Long được giải vây.

Đầu năm 1562, nhân lúc đại quân Lê đã về căn cứ, Mạc Tuyên Tông sai Nguyễn Phú Xuân và Giáp Trưng mang quân đánh Lạng Sơn vẫn còn trong tay nhà Lê. Tướng Lê là Hoàng Đình Ái không chống nổi, phải bỏ thành rút chạy. Lạng Sơn lại về tay nhà Mạc.

-  Chiến sự 1564-1565

Năm 1564, Mạc Tuyên Tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2 tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.

Sau lần ra cướp lương thực ở Thanh Trì và Thượng Phúc năm 1563, Trịnh Kiểm lại mang quân ra phía bắc 3 lần trong năm 1564-1565, đánh phá các huyện Gia Viễn, Yên Mô, Yên Khang. Tháng 12 năm 1565, trong lúc Trịnh Kiểm tiến đánh Sơn Nam thì Mạc Kính Điển lại mang quân vào cửa biển Linh Trường đánh Thanh Hóa.

Vũ Sư Thước sai người cáo cấp với Trịnh Kiểm. Trịnh Kiểm sai Lộc quận công đem quân về cứu Thanh Hóa. Quân Lê hợp lại làm một, giao chiến với quân Mạc ở Du Trường. Quân Mạc phục sẵn ở chỗ hiểm yếu, cho kỳ binh ra khiêu chiến, rồi giả cách thua chạy. Vũ Sư Thước đem binh tượng đuổi theo. Mạc Kính Điển liền tung phục binh ra, bốn mặt cùng nổi dậy, đánh kẹp lại vây thành mấy lớp. Sư Thước, Thế Khanh bại trận, phải phá vòng vây, cố sức đánh thoát chạy vào rừng núi. Lộc quận công bị quân Mạc đâm chết trên lưng voi. Quân Lê bị chết hàng nghìn người. Mạc Kính Điển định đánh tiếp nhưng nghe tin Trịnh Kiểm đã rút quân về đến Thạch Thành, bèn đem quân về.

-  Chiến sự 1570

Từ năm 1566, chiến sự giữa hai bên chỉ có vài trận nhỏ. Trịnh Kiểm tuổi cao sức yếu, không thực hiện những chiến dịch lớn, còn Mạc Kính Điển cũng tập trung củng cố nội bộ.

Cuối năm 1569, Trịnh Kiểm ốm nặng, giao lại binh quyền cho con cả là Trịnh Cối. Tháng 3 năm 1570, Trịnh Kiểm chết, Trịnh Cối lên thay. Con thứ Kiểm là Trịnh Tùng tranh quyền với Cối. Hai bên dàn quân đánh nhau.

Nhân cơ hội đó, tháng 8 năm 1570, Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân, 700 chiếc thuyền chiến vào đánh Thanh Hóa. Ông chia quân sai em là Mạc Đôn Nhượng cùng Mạc Đình Khoa và phó tướng là Mậu quận công đem quân giữ cửa biển Thần Phù.

Mạc Kính Điển chia quân làm 6 mũi cùng tiến vào các cửa biển Linh Trường, Chi Long, Hội Triều, hội quân ở Bút Cương. Đến Hà Trung, quân Mạc đóng dinh ven sông.

Trịnh Cối bị kẹp giữa quân Mạc và Trịnh Tùng, tự liệu không chống nổi, liền đem các tướng Lại Thế Mỹ, Vũ Sư Doãn, Trương Quốc Hoa và vợ con đón hàng nhà Mạc. Mạc Kính Điển tiếp nhận, phong cho Trịnh Cối tước Trung Lương hầu và phong chức cho các tướng Lê về hàng, rồi sai các hàng tướng dẫn quân bản bộ tiếp tục tiến.

Trong số các tướng dưới quyền Trịnh Cối chỉ có Vũ Sư Thước định bỏ doanh trại vào cửa quan Yên Trường theo nhà Lê, nhưng quân lính muốn hàng nhà Mạc, không chịu theo. Sư Thước buộc phải về theo nhà Mạc, được phong tước Thuỷ quận công.

Vua Lê Anh Tông thấy Trịnh Cối hàng Mạc bèn trao binh quyền cho Trịnh Tùng làm Tiết chế các dinh thuỷ bộ. Trước thế mạnh của quân Mạc, Trịnh Tùng chủ trương phòng thủ chia quân chiếm giữ cửa luỹ các xứ, đào hào đắp luỹ, đặt phục binh giữ nơi hiểm yếu để phòng.

Ngày 25 tháng 8 âm lịch, Mạc Kính Điển mang quân cùng tiến, dọc sông Mã và sông Lam. Nhân dân Thanh Hóa bỏ chạy, nhà Mạc mang nhiều người và của cải lấy được ở Thanh Hóa ra bắc.

Quân Mạc ngày đêm tiến đánh luỹ Yên Trường. Quân Lê thế yếu, chỉ đắp luỹ cao, đào hào sâu, giữ chỗ hiểm để chờ thời. Tướng Nam triều là Lê Cập Đệ dùng mẹo sai quân lính ban đêm dựng luỹ tầng ngoài kéo dài đến hơn 10 dặm, lấy nhiều vách nhà để che chắn, dùng bùn trát bên ngoài, trên thả chông tre, chỉ một đêm mà thành giả làm xong.

Hôm sau, Mạc Kính Điển trông thấy, cho là thành thật, kinh ngạc không dám đến gần và đốc suất tướng sĩ ngày đêm đánh gấp. Hai bên giao chiến ác liệt, bên trái sông từ Da Châu, Tàm Châu, bên phải sông từ đầu nguồn hai huyện Lôi Dương, Nông Cống đều là chiến trường, quân Mạc lần lượt đánh chiếm. Tướng Nam triều là Hà Khê hầu đem quân ra giữ luỹ Ai ở huyện Cẩm Thuỷ đầu hàng nhà Mạc.

Tháng 10 âm lịch năm 1570, hai bên giao chiến ở sông Bảo Lạc, Long Sùng. Quân Lê dùng chiến thuật ban ngày thì cố thủ, ban đêm thì đánh cướp doanh trại, quấy rối quân Mạc. Mạc Kính Điển thấy đánh mãi không được, liền lui giữ dinh Hà Trung.

Vũ Sư Thước đã hàng Mạc, lại muốn trở về hàng Lê. Nhờ Sư Thước làm nội ứng, quân Lê chia ra đánh chiếm lại các huyện Tống Sơn, Đông Sơn, Quảng Xương. Sư Thước đem 500 quân bản bộ nửa đêm bỏ trốn về hàng Lê. Mạc Kính Điển tiến đánh không được, lui về giữ dinh sông Bút Cương rồi đến tháng chạp thì rút đại quân về bắc.

-  Chiến sự 1571

Tháng 8 năm 1571, Mạc Kính Điển đốc suất quân lính vào đánh các huyện ở Nghệ An. Nghệ An xa bản dinh vua Lê nên không được ứng cứu, dân Nghệ An sợ uy quân Mạc từ nhiều năm, phần nhiều đầu hàng họ Mạc. Do đó từ sông Cả vào Nam đều trở về hàng nhà Mạc.

Tướng trấn thủ nhà Lê là Nguyễn Bá Quýnh nghe tin quân Mạc kéo đến sợ hãi bỏ chạy, còn lại Hoàng quận công chống nhau với Nguyễn Quyện nhưng không địch nổi, bỏ cả thuyền chạy vào Hoá Châu, cuối cùng bị quân Mạc bắt sống. Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận: "Từ đó, thế giặc (Mạc) lại mạnh, đi đến đâu, dân đều bỏ chạy".

Tháng 9 năm 1571, Trịnh Tùng sai Trịnh Mô (tức Nguyễn Cảnh Hoan)và Phan Công Tích đi cứu Nghệ An. Quân Mạc rút về bắc.

-  Chiến sự 1572

Từ năm 1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm 1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam.

Năm 1572, Mạc Kính Điển lại mang quân vào đánh Thanh Hóa và Nghệ An, đồng thời sai Mạc Lập Bạo mang 70 chiến thuyền vào đánh Thuận Hóa. Nguyễn Hoàng dùng kế giết được Mạc Lập Bạo. Từ đó nhà Mạc mất hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.

Quân Mạc lại đánh phá Nghệ An, quân Lê không chống nổi. Thái phó Vi quận công nhà Lê là Lê Khắc Thận, vượt lũy về hàng nhà Mạc. Trịnh Tùng bèn bắt các con của Khắc Thận là Tuân, Khoái, Thầm mang giết hết.

Tháng 10 năm 1572, Lại Thế Khanh, Trịnh Mô, Phan Công Tích đem quân đi Nghệ An. Khi quân Lê đến nơi thì quân Mạc rút lui.

-  Chiến sự 1573-1574

Nội bộ nhà Lê trung hưng xảy ra mâu thuẫn. Lê Anh Tông không muốn bị Trịnh Tùng thao túng, tìm cách chống lại. Anh Tông cùng 4 người con lớn trốn ra ngoài, chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng lập con út của Anh Tông là Duy Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông. Sau đó Trịnh Tùng sai Nguyễn Hữu Liêu đi đánh bắt được Lê Anh Tông và giết chết. Từ đó quyền hành nhà Lê trung hưng hoàn toàn trong tay Trịnh Tùng.

Tháng 8 năm 1573, Mạc Kính Điển lại tiến đánh Thanh Hóa, đánh dinh Yên Trường. Trịnh Tùng rút vào dinh cố thủ rồi bất ngờ chia quân ra đánh úp. Quân Mạc bị thua phải rút về.

Tháng 7 năm 1574, Mạc Mậu Hợp lại sai Nguyễn Quyện vào đánh Nghệ An. Từ sông Cả trở về Bắc lại theo nhà Mạc. Tướng nhà Lê là Hoàng quận công đánh nhau với Nguyễn Quyện nhiều lần bị thua. Quân Lê nhiều người bỏ trốn, Hoàng quận công bèn làm vòng sắt khoá chân quân lính vào thuyền. Quân Mạc đuổi đến, họ cũng không chịu đánh. Hoành quận công bèn bỏ thuyền lên chạy bộ. Đến châu Bố Chính thì Hoàng quận công bị Nguyễn Quyện bắt sống đem về Thăng Long giết chết.

Trịnh Tùng sai Phan Công Tích và Trịnh Mô đem quân cứu Nghệ An, chống nhau với Nguyễn Quyện đến vài tháng. Sau một thời gian Nguyễn Quyện đem quân về kinh, Công Tích cũng thu quân về Thanh Hoa.

-  Chiến sự 1575

Ngày mồng 6 tết âm lịch, Mạc Kính Điển lại đem quân đánh Thanh Hoa, Nguyễn Quyện đem quân đánh Nghệ An.

Thế quân Mạc mạnh, tiến đến đâu, mọi người đều không dám chống lại, trốn xa vào núi rừng. Mạc Kính Điển tự đem đại binh tiến đánh các sông ở Yên Định và Thuỵ Nguyên, chia quân cho bọn Mạc Ngọc Liễn tiến đánh các huyện Lôi Dương và Đông Sơn.

Tháng 8 năm 1575, Trịnh Tùng sai thái phó Hoàng Đình Ái cùng Đỗ Diễn, Thạch quận công và Phan Văn Khoái đem quân đi cứu các huyện Lôi Dương, Nông Cống, Đông Sơn, đóng quân ở núi Tiên Mộc. Trịnh Tùng tự dẫn đại quân Trung dinh, sai Vũ Sư Thước và Nguyễn Hữu Liêu làm tiên phong; phía sau có các tướng Trịnh Bách, Trịnh Đồng, Trịnh Ninh, Trịnh Vĩnh Thiệu, Trịnh Đỗ, Tống Đức Vị, Hà Thọ Lộc tiến đến Chiêu Sơn đóng quân. Mạc Kính Điển đem đại binh đánh ở Đông Lý, huyện Yên Định. Vũ Sư Thước và Nguyễn Hữu Liêu mang quân ra đánh, quân Mạc bại trận rút về.

Tại chiến trường Nghệ An, Lại Thế Khanh, Trịnh Mô và Phan Công Tích đem quân vào cứu, đụng độ với Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện đem kỳ binh phục sẵn để đợi, đánh thắng liền mấy trận, bắt được Phan Công Tích đem về kinh.

-  Chiến sự 1576

Tháng 8 năm 1576, Mạc Kính Điển lại đem quân xâm lược Thanh Hoa, tiến đánh sông Lam ở huyện Thuỵ Nguyên. Ông sai Mạc Ngọc Liễn đem quân tiến đánh sông Đồng Cổ ở huyện Yên Định. Mặt khác, Kính Điển vẫn chia quân cho Nguyễn Quyện đánh Nghệ An.

Nguyễn Quyện đánh nhau với Trịnh Mô vài tháng. Trịnh Mô nhiều lần đánh không được, trốn về Thanh Hoa, đến huyện Ngọc Sơn. Nguyễn Quyện tự đốc quân đuổi tới Ngọc Sơn, bắt được Trịnh Mô ở giữa đường đưa về Thăng Long.

Kể từ khi bắt được Mô, uy danh của Nguyễn Quyện ngày một lừng lẫy. Các tướng Nam triều đều cho là mình không bằng Nguyễn Quyện.

-  Chiến sự 1577

Nhân thế Nam triều suy yếu, Mạc Mậu Hợp muốn tập trung lực lượng đánh diệt Nam triều, bèn ra lệnh động binh thêm và quân lính phải dự trữ lương trong 3 tháng để chuẩn bị đánh vào Thanh-Nghệ.

Phía Nam triều cũng lo cố thủ chống quân Bắc triều. Trịnh Tùng lệnh cho các huyện dọc sông ở Thanh Hóa làm kế "vườn không nhà trống", giấu của cải gia súc vào núi để tránh quân Mạc và đặt súng ở các nơi canh phòng để bắn làm hiệu.

Tháng 9 năm 1577, Mạc Kính Điển lại mang quân đánh Thanh Hóa. Trịnh Tùng đích thân đem đại binh ra cửa luỹ Khoái Lạc chống lại. Quân Mạc đánh phá dinh Hội Thượng. Hoàng Đình Ái và Nguyễn Hữu Liêu đem quân ngăn chặn. Hai bên đánh nhau với ở Hà Đô.

Nguyễn Quyện đem quân phục ở phía ngoài đê chờ đợi, rồi sai Hoàng quận công tức Mạc Đăng Lượng cùng với Lại Thế Mỹ đem quân khiêu chiến, tiến đến ngoài cửa luỹ Khoái Lạc. Thế Mỹ nhảy lên ngựa trước đến đánh. Quân Lê dùng súng bắn chết Thế Mỹ. Quân Mạc tan vỡ rút chạy.

Mạc Kính Điển đem quân về Thăng Long, Trịnh Tùng cũng trở về dinh Yên Trường.

-  Chiến sự 1578-1579

Tháng 8 năm 1578, Mạc Kính Điển đem quân vào lấn các huyện ven sông xứ Thanh Hoa. Quân Mạc Tiến đến Giang Biểu, Trịnh Tùng sai Trịnh Bách đem quân vượt sông phục sẵn ở núi Phụng Công, đánh nhau to với quân Mạc ở cầu Phụng Công. Quân Lê tập trung súng bắn vào, quân Mạc chết rất nhiều. Mạc Kính Điển liền rút quân về Thăng Long.

Tháng 11 năm đó, Mạc Ngọc Liễn được lệnh đem quân đánh chúa Bầu các châu huyện ở Tuyên Quang và Hưng Hoá, đến châu Thu và châu Vật. Chúa Bầu Vũ Công Kỷ tung quân đánh, quân Mạc thất bại rút về.

Tháng 8 năm 1579, Mạc Kính Điển lại đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp phá vùng ven sông, đến sông Tống Sơn, phủ Hà Trung, đánh vào xã Chương Các. Trịnh Tùng sai Đặng Huấn đốc quân chống quân Mạc ở Thái Đường và Trịnh Văn Hải làm tiên phong đánh vào núi Kim Âu. Đặng Huấn thúc quân tiến ngầm đến địa phương Tống Sơn, ra Mục Sơn ở sông Bình Hoà, chặn phía sau quân Mạc. Quân Mạc thua to phải rút về.

Đây là lần nam tiến cuối cùng của Mạc Kính Điển.

-  Chiến sự 1580-1583

Tháng 8 năm 1580, Mạc Mậu Hợp sai Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn cùng Hoàng quận công Mạc Đăng Lượng đem quân vào đánh Thanh Hoa, cướp lấy tiền của, súc vật các huyện dọc sông rồi rút về.

Tháng 11 năm đó, Mạc Kính Điển qua đời. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín. Quyền phụ chính giao cho em út Kính Điển là Ứng vương Mạc Đôn Nhượng.

Mùa thu năm 1581, Mạc Mậu Hợp sai Mạc Đôn Nhượng đi đánh các huyện ven sông ở Thanh Hóa. Đôn Nhượng đem quân vượt biển vào đến huyện Quảng Xương, đóng quân ở núi Đường Nang.

Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái thống lĩnh các tướng tiến quân chống giữ. Đình Ái chia thành ba đạo, cùng Nguyễn Hữu Liêu, Trịnh Bính, Hà Thọ Lộc làm tả đội chống quân Nguyễn Quyện, còn Trịnh Văn Hải chống quân Mạc Ngọc Liễn.

Hai bên đánh nhau to. Quân Lê chém hơn 600 quân Mạc, bắt sống tướng Mạc là Nguyễn Công và Phù Bang hầu. Quân Mạc đại bại, tan vỡ tháo chạy. Mạc Đôn Nhượng và tướng sĩ thu nhặt tàn quân về Thăng Long.

Tháng 8 năm 1583, quân Mạc lại vào đánh Thanh Hóa, cướp phá các huyện ven sông. Trịnh Tùng sai quân đánh lớn ở ngoài cửa biển, quân Mạc rút chạy về.

Đây là lần nam tiến cuối cùng của Bắc triều.


[xem tiếp]                                                                                                                                  [quay lại]


Tổng số thành viên: 19602
Thành viên mới nhất: Vũ ngọc khánh
Đang trực tuyến: 8
Lượt truy cập: 4326568