Trang chủ -> Danh nhân Việt Nam -> LÝ NHÂN TÔNG (22/2/1066 - 15/1/1127)
 10/11/2014 23:53

LÝ NHÂN TÔNG


Lý Nhân Tông
(chữ Hán: 李仁宗; 22 tháng 2, 1066 – 15 tháng 1, 1127), là vị hoàng đế thứ 4 của triều đại nhà Lý, trị vì trong vòng 56 năm (1073 - 1127), lâu hơn bất kỳ một vị hoàng đế nhà Lý và triều đại nào trong lịch sử Việt Nam.

Ông nổi tiếng là một minh quân trong lịch sử Việt Nam, là người đặt nền móng xây nền giáo dục đại học Việt Nam, cũng như sự thịnh trị lâu dài của triều Lý. Trong thời gian trị vì, ông cùng với mẹ là Linh Nhân hoàng thái hậu và thái úy Lý Thường Kiệt hai lần đánh bại quân đội hùng mạnh của nhà Tống, lưu danh thiên cổ.

I. Tiểu sử

Tên húy (thật) của ông là Lý Càn Đức (李乾德), là con trưởng của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi Lê thị. Ông sinh ngày 25 tháng Giêng năm Bính Ngọ (tức 22 tháng 2 năm 1066) tại kinh đô Thăng Long, Hà Nội. Ngay hôm sau, ông được vua cha Lý Thánh Tông lập làm thái tử.

Năm 1072, Thánh Tông hoàng đế băng hà, Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi, vì còn nhỏ tuổi, Thái sư Lý Đạo Thành tiến hành quyết định chọn người làm nhiếp chính cho Ấu đế.

Ban đầu mẹ đích của ông là Thượng Dương hoàng hậu được tôn làm Hoàng thái hậu nhiếp chính, còn mẹ ruột ông là Lê Nguyên phi được tôn làm Hoàng thái phi. Sau đó, Thái phi được Lý Thường Kiệt phò trợ, phế truất Thái hậu và ép bà phải chết. Thái phi được đăng vị Thái hậu, trở thành người có quyền nhiếp chính nhất Đại Việt. Bà biếm Lý Đạo Thành ra trấn thủ Nghệ An xa sôi, trọng dụng Lý Thường Kiệt, phong làm Thái úy.

II. Chiến tranh chống Tống

Khi Nhân Tông lên ngôi, nhà Tống muốn nhân lúc vua Lý còn nhỏ để mang quân đánh chiếm. Nhờ vào khả năng quân sự của Lý Thường Kiệt, nước Đại Việt đã đứng vững trong cuộc chiến với quân đội nhà Tống.

Năm 1075, ngay khi nhà Tống đang tập kết lực lượng ở Ung Châu chuẩn bị tiến sang, Lý Thường Kiệt chủ động mang quân đánh sang đất Tống trước. Sang đầu năm 1076, quân Lý hạ thành Ung châu.

Năm Bính Thìn (1076), nhà Tống cử Quách Quỳ, Triệu Tiết đem đại binh sang xâm lược Đại Việt. Quân đội nhà Lý dưới sự chỉ huy của Phụ quốc thái úy Lý Thường Kiệt đã đánh bại được đội quân nhà Tống tại trận tuyến trên sông Như Nguyệt. Năm 1077, Quách Quỳ chấp nhận cho Đại Việt giảng hòa và rút quân trở về.

III. Cai trị

1. Thịnh trị

Thời kỳ đầu, tuy còn bận giao tranh với nhà Tống nhưng triều đình vẫn rất quan tâm đến giáo dục, quan chế.

Năm 1075, Nhân Tông mở khoa thi Tam trường, còn gọi là Minh kinh bác học để chọn người có tài văn học vào làm quan. Khoa thi ấy là khoa thi đầu tiên ở Đại Việt và chọn 10 người, thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Thịnh làm đến chức thái sư (tể tướng), tỏ rõ là người có tài năng xuất chúng. Năm 1076, Nhân Tông cho lập Quốc Tử Giám - trường đại học đầu tiên ở Đại Việt, chọn những nhà khoa bảng tài giỏi vào dạy. Đến năm Bính Dần (1086), mở khoa thi chọn người có tài văn học vào Hàn lâm viện. Khoa ấy có Mạc Hiển Tích đỗ đầu, được bổ nhiệm làm Hàn lâm học sĩ.

Năm 1089, Thị lang Bộ binh Lê Văn Thịnh được cử sang trại Vĩnh Bình cùng với người Tống bàn việc cương giới. Bấy giờ, sau khi đánh bại quân Tống, triều đình ngay lập tức thông hiếu và thỏa thuận trao trả tủ binh, đất đai. Trước đó, Đào Tông Nguyên đem biếu nhà Tống 5 con voi thuần, xin trả lại các châu Quảng Nguyên, Tô Mậu, và những người các châu ấy bị bắt đi. Cuối cùng, nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện và 3 động, đổi lại triều đình trả lại tù binh của 3 châu Khâm, Liêm, Ung bị bắt khi Thái úy Lý Thường Kiệt kéo quân sang đánh phá.

Năm Bính Dần (1086), Nhân Tông định quan chế, chia văn võ bá quan làm 9 phẩm. Quan đại thần có thái sư, thái phó, thái uý và thiếu sư, thiếu uý. Ở dưới những bậc ấy, về văn ban có thượng thư, tả hữu tham tri, tả hữu gián nghị đại phu, trung thư thị lang, bộ thị lang. Về võ ban có đô thống, nguyên suý, tổng quản khu mật sứ, khu mật tả hữu sứ, kim ngô thượng tướng, đại tướng, đô tướng, chư vệ tướng quân v.v... Ở các châu quận, văn thì có tri phủ, tri châu; võ thì có chư lộ trấn, lộ quan.

Bấy giờ, thiên hạ vô sự, Thái hậu đi khắp các nơi để xây chùa chiền. Phật giáo thời Nhân Tông tiếp tục phát triển cực thịnh, ông ban cho họ quyền hành như việc phong nhà sư Khô Đầu làm Quốc sư, tuy nhiên chỉ giới hạn trong việc gợi ý giúp hoàng đế trong việc kiện tụng, việc quốc gia đại sự. Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm đề cử. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.

Mùa thu, tháng 9 năm 1105, làm hai ngọn tháp chỏm trắng ở chùa Diên Hựu, ba ngọn tháp chỏm đá ở chùa Lãm Sơn. Bấy giờ vua sửa lại chùa Diên Hựu đẹp hơn cũ, đào hồ Liên Hoa Đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là hồ Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Hàng tháng cứ ngày rằm, mồng một và mùa hạ, ngày mồng 8 tháng 4, xa giá ngự đến, đặt lễ cầu phúc, bày nghi thức tắm Phật, hàng năm lấy làm lệ thường.

Năm 1108, Nhân Tông cho đắp đê chống lũ lụt, nổi tiếng nhất là đê Cơ Xá, khởi đầu cho việc đắp đê ngăn lũ ở Việt Nam, nhằm giữ cho kinh thành khỏi ngập lụt.

Năm 1117, Nhân Tông theo lời Thái hậu, ra quy định cấm giết trâu bò bừa bãi: ai mổ trộm trâu bị phạt 80 trượng và tội đồ làm người hầu trong quân đội; người giết trâu và ăn trộm trâu đều phải bồi thường; hàng xóm biết mà không tố cáo cũng bị phạt 80 trượng. Bấy giờ đất nước thường được mùa, thường trúng mùa to, khi hạn hát mất mùa thường phát chẩn kho lương, giảm tô dịch, đất nước nhanh chóng cường thịnh. Nhân Tông rất thường hay xem gặt lúa ở các nơi, cũng như xem bắt voi, lễ hội,...để tỏ rõ sự cường thịnh của Đại Việt lúc đó.

2. Vụ án Lê Văn Thịnh

Lê Văn Thịnh (黎文盛), người làng Đông Cửu, quê xã Chi Nhị, tổng Đại Lai, huyện Yên Định, lộ Bắc Giang; nay là thôn Bảo Tháp, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Là người đầu tiên đổ đầu khoa thi cử do triều đình tổ chức, ban đầu ông được vào hầu nhà vua học, sau trải thăng chức Nội cấp sự, rồi Thị lang bộ binh.

Tháng 6, năm 1084, ông được cử đi đến trại Vĩnh Bình (thuộc Cao Bằng ngày nay) để bàn nghị về việc cương giới với Chánh sứ nhà Tống là Thành Trạc. Nhà Lý lấy được lại đất bị mất, Lê Văn Thịnh được thưởng lớn, phong làm Thái sư đứng đầu. Tuy nhiên, đến năm 1095, Lê Văn Thịnh bị dính vụ án hồ Dâm Đàm, bị tước chức vị và đày đi Thao Giang.

Sách Đại Việt sử lược ra đời vào thời Trần, kể lại vụ án như sau:

"Mùa đông, tháng 11, năm Ất Hợi (1095), nhà vua (Lý Nhân Tông) xem đánh cá ở Diêu Đàm (hay Dâm Đàm, nay là Hồ Tây, Hà Nội). Lúc bấy giờ vua ngự trong một chiếc thuyền nhỏ, thị vệ theo hầu rất ít. Thái sư Lê Văn Thịnh vốn có mưu gian, nhân cơ hội ấy mới dùng ảo thuật làm khói sương nổi thoắt lên bao phủ cả mặt hồ, ban ngày mà tối tăm mù mịt. Một lát, nhà vua nghe tiếng mái chèo sắp đến gần, vua có ý sợ xảy ra tai biến mới lấy cái mác phóng ra. Khói sương theo cái mác mà tan biến đi thì thấy thuyền của Lê Văn Thịnh đã đến gần, với đồ hung khí. Vua sai người bắt giữ Lê Văn Thịnh lại rồi hạ chiếu đem an trí ở miệt Thao Giang. Trước kia, trong nhà Lê văn Thịnh có tên đầy tớ là người Đại lý (tức Vân Nam, Trung Quốc ngày nay), giỏi làm ảo thuật, Lê Văn Thịnh học được phép của nó. Và, đến đây thì làm phản".

Sau đó, sách Đại Việt sử ký toàn thư ra đời vào thời Hậu Lê, kể lại vụ án như sau:

"Mùa xuân, tháng 3, Lê Văn Thịnh mưu làm phản, tha tội chết, an trí ở Thao Giang. Bấy giờ vua (Lý Nhân Tông) ra hồ Dâm Đàm, ngự thuyền nhỏ xem đánh cá. Chợt có mây mù nổi lên, trong đám mù nghe có tiếng thuyền bơi đến, tiếng mái chèo rào rào, vua lấy giáo ném. Chốc lát mây mù tan, thấy trong thuyền có con hổ, mọi người sợ tái mặt, nói: "Việc nguy rồi!". Người đánh cá là Mục Thận  quăng lưới trùm lên con hổ, thì ra là Thái sư Lê Văn Thịnh. Vua nghĩ Thịnh là đại thần có công giúp đỡ, không nỡ giết, đày lên trại đầu Thao Giang. Trước đấy Lê Văn Thịnh có gia nô người nước Đại Lý có phép thuật kỳ lạ, cho nên mượn thuật ấy toan làm chuyện thí nghịch.

Hiện quê hương của Lê Văn Thịnh, có hai khu di tích lập ra để thờ ông (ở Thuận Thành và Gia Bình), và khu lăng mộ của ông cũng đã được trùng tu nhiều lần.

3. Quan hệ quân sự

a. Dẹp nội loạn

Tháng 10, năm 1103, người Diễn Châu là Lý Giác mưu làm phản. Giác trước học được thuật lạ, có thể biến cây cỏ làm người, bèn chiêu tập những kẻ vô lại chiếm cứ châu ấy, đắp thành làm loạn. Việc tâu lên, vua sai Thái úy Lý Thường Kiệt đi đánh. Giác thua trốn sang Chiêm Thành, dư đảng đều bị dẹp yên. Thuận theo lúc đó, quốc vương Chiêm Thành Chế Ma Na cử quân qua đánh phá biên giới, muốn đòi lại 3 châu mà Chế Củ trước đây đã dâng cho Lý Thánh Tông. Thường Kiệt đánh thắng được, Chế Ma Na trao trả lại và xin thuần phục như cũ.

Tháng 7, năm 1119, Nhân Tông quyết định thân chinh đánh động Ma Sa. Ông chuẩn bị rất kỹ lưỡng, duyệt sáu binh tào Vũ Tiệp, Vũ Lâm v.v..., người nào mạnh khỏe cho làm Hỏa đầu ở các đội quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, còn bậc dưới thì cho làm binh lính ở các quân Ngọc Giai, Hưng Thánh, Bổng Nhật, Quảng Thành, Vũ Đô, Ngự Long.

Họp các quân nhân cả nước thề ở Long Trì. Xuống chiếu rằng: Trẫm nhận lấy cơ nghiệp của một tổ hai tông, đứng trên dân đen, coi triệu họ trong bốn biển đều như con đỏ, cả đến cõi xa cũng mến lòng nhân mà quy phụ, phương khác cũng mộ nghĩa mà lại chầu. Vả xét dân động Ma Sa sống ở trong cõi của ta, động trưởng Ma Sa thì đời đời làm phiên thần của ta, thế mà nay kẻ tù trưởng ngu hèn ấy bỗng phụ ước của ông cha, quên việc tuế cống khiếm khuyết lệ thường phép cũ. Trẫm vẫn nghĩ mãi, việc không đừng được, nay trẫm tự làm tướng đi đánh dẹp. Nay các tướng súy sáu quân, các ngươi đều phải hết lòng, tuân theo mệnh lệnh của trẫm. Bèn ban khí giới cho tướng sĩ, vua ngự thuyền Cảnh Hưng, xuất phát từ bến Thiên Thu, cờ xí rợp trời, gươm giáo rẽ sương, quân sĩ đánh trống reo hò, khí thế trăm phần hăng hái.

Nhân Tông hoàng đế tự làm tướng đánh động Ma Sa, phá tan được, bắt được bọn động trưởng Ngụy Bàng vài trăm người, lấy được vàng, lụa, trâu, dê không kể xiết. Sai tỷ tướng vào các động dọc biên giới chiêu dụ những người trốn tránh bảo về yên nghiệp.

b. Ngoại giao láng giềng

Sau sự kiện Chế Ma Na dậy binh làm loạn, quan hệ giữa nhà Lý và Chiêm Thành dầng trở lại như trước. Chiêm Thành năm nào cũng tiến cống vàng bạc, châu báu và thổ sản, triều đình cũng thường xuyên giữ thể diện cho sứ thần Chiêm Thành, mời họ dự các nghi lễ như tắm Phật, lễ hội, khánh thành chùa chiền và xem các vương hầu đá cầu ở Long Trì. Năm 1123, nước Chân Lạp sang quy phụ và xin triều cống thường lệ, y như Chiêm Thành.

Tháng 12, năm 1124, tiểu thủ lĩnh châu Quảng Nguyên là Mạc Hiền và phe đảng bộ thuộc trốn sang động Cống ở địa giời Ung Châu nước Tống. Đầu năm 1125, Ung Châu bắt bọn Mạc Hiền, xin sai người đến Giang Nam để giao trả. Hoàng đế sai người giữ phủ Phú Lương là trung thư Lý Hiến đến Giang Nam nhận đem về kinh sư. Đày Mạc Hiền vào châu Nghệ An, vợ con đều sung làm quan nô.

Cuối năm 1126, triều đình sai lệnh thư gia là Nghiêm Thường, ngự khố thư gia là Từ Diên đem 10 con voi thuần và vàng bạc, sừng tê, sừng bin sang biếu nhà Tống để tạ ơn việc bắt Mạc Hiền. Thường và Diên đến Quế phủ vào ra mắt quan kinh lược ty. Quan quân Ung Châu bảo với Thường và Diên rằng: Năm nay ở Đông Kinh và các xứ Hồ Nam, Đĩnh Châu, Lễ Châu đều đã đem binh mã đi đánh người Kim, chưa biết lúc nào về. Trong lúc này thì ngựa trạm, phu trạm dọc đường chỗ nào cũng ít, xin sứ giả đem lễ vật về. Thường và Diên phải trở lại. Năm ấy người nước Kim là Niêm Hãn, Cán Lý Bất đem quân vây Biện Kinh nước Tống, bắt Tống Huy Tông và Tống Khâm Tông đem về phương Bắc, đó là sự kiện Tĩnh Khang.

Mùa đông, tháng 11 năm 1127, Khâm Châu nước Tống đưa trả nghịch đảng ở châu Quảng Nguyên là bọn Mạc Thất Nhân, dư dảng của bọn Mạc Hiền.

Sau sự kiện năm 1073, nhà Tống có ý e dè và khiêm nhường đối với Đại Việt của triều đình nhà Lý, mối quan hệ nhanh chóng trở nên quân bình ngang hàng. Triều Lý cũng hết sức quan tâm tình hình của nhà Tống lúc đó khi bị nhà Kim xâm lấn ở phương Bắc, dù vô hình trung đều là để thăm dò tình hình quân Khiết Đan từ phương xa.

4. Người nối dõi

Bấy giờ, Hoàng đế đã có tuổi mà vẫn không có con trai để nối dõi, dù trong cung nhà vua có đến hàng nghìn cung tần mỹ nữ và Hoàng hậu, Hoàng phi. Dân gian đồn đại rằng, do Thái hậu làm việc thất đức nên đây là quả báo. Thái hậu nhiều lần xây chùa chiền cốt là để tạo ơn đức, cầu siêu lỗi lầm và cũng cầu tự cho Nhân Tông có con trai nhưng mọi sự vẫn không như mong đợi.

Đến tháng 10, năm 1117, Thái hậu từ trần rồi mà Nhân Tông vẫn không có hi vọng về huyết mạch duy trì, bèn viết chiếu ban ra trong hoàng tộc, nói rằng: Trẫm cai trị muôn dân mà lâu không có con nối, ngôi báu của thiên hạ biết truyền cho ai? Vậy nên trẫm nuôi con trai của các công hầu Sùng Hiền, Thành Khánh, Thành Quảng, Thành Chiêu, Thành Hưng, chọn người nào giỏi thì lập làm Thái tử. Bấy giờ con Sùng Hiền hầu là Lý Dương Hoán mới lên 2 tuổi mà thông minh lanh lợi, vua rất yêu và bèn lập làm Hoàng thái tử.

IV. Qua đời

Tháng Chạp năm Đinh Mùi, Lý Nhân Tông ốm nặng. Ông gọi các đại thần Lưu Khánh Đàm và Lê Bá Ngọc vào giao việc giúp thái tử Lý Dương Hoán. Về việc tang lễ, ông dặn:

"Việc tang thì chỉ 3 ngày bỏ áo trở, nên thôi thương khóc; việc chôn thì nên theo Hán Văn Đế, cốt phải kiệm ước, không xây lăng mộ riêng, nên để ta hầu bên cạnh tiên đế"

Ngày Đinh Mão (tức 15 tháng 1 năm 1128), ông mất ở điện Vĩnh Quang, ở ngôi 56 năm, thọ 63 tuổi. Thái tử Lý Dương Hoán lên nối ngôi, tức là Lý Thần Tông. Nội vũ vệ Lê Bá Ngọc tuyên đọc chiếu chỉ và giúp Hoàng đế nhỏ tuổi trị quốc, cùng với các đại thần Dương Anh Nhĩ, Mâu Du Đô.

V. Tác phẩm

Tác phẩm của vua Lý Nhân Tông hiện chỉ còn ba bài thơ, một vài bức thư gửi triều đình nhà Tống, bốn bài hịch và chiếu. Tất cả đều viết bằng chữ Hán.

-  Ba bài thơ tứ tuyệt đều thuộc loại thơ thù tặng, gồm: "Truy tán Vạn Hạnh Thiền sư" (Truy khen Thiền sư Vạn Hạnh), "Tán Giác Hải Thiền sư, Thông Huyền Đạo nhân" (Khen Thiền sư Giác Hải và Đạo sĩ Thông Huyền), "Truy tán Sùng Phạm Thiền sư" (Truy khen Thiền sư Sùng Phạm).

-  Bức thư có giá trị nhất có tên là "Thỉnh hoàn Vật Dương, Vật Ác nhị động biểu". Đây là bức thư gửi cho vua Tống, nhân hội nghị Vĩnh Bình giữa hai nước, nhằm đòi lại hai động là Vật Dương và Vật Ác. Lời lẽ trong thư mềm mỏng, khiêm nhượng, nhưng vẫn khôn khéo vạch được mưu mô chiếm đất và sự dối trá của nhà Tống.

-  Bài chiếu có nhiều nét ý vị là bài "Lâm chung di chiếu" (Chiếu để lại lúc mất). Đây là bài văn biểu lộ rõ phong cách của người viết, đã hé mở cho thấy một tấm lòng nhân hậu, cao cả, không muốn lạm dụng địa vị cao sang để phiều nhiễu dân; chỉ muốn trước sau lúc nào cũng giữ được ý nguyện "trăm họ được yên", "bốn bể yên vui, biên thùy ít loạn".

VI. Nhận định

Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư có nhận xét về Lý Nhân Tông:

"Vua trán dô mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí tuệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý. Tiếc rằng mộ đạo Phật, thích điềm lành, đó là điều lụy cho đức tốt."

Lý Nhân Tông cũng là một vị vua khổ luyện, phấn đấu đạt đến độ "học thức cao minh, hiểu sao đạo lý" (Phan Huy Chú). Chính vì vậy, đánh giá tổng quát về ông, các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên đến Phan Huy Chú, Lê Quý Đôn v.v... đều xem ông là "vị vua giỏi", "vị anh quân" của vương triều Lý.

VII. Gia quyến

-  Thân phụ: Thánh Tông hoàng đế Lý Nhật Tôn.

-  Thân mẫu: Linh Nhân hoàng hậu Lê thị (靈仁皇后 黎氏, 1044 - 1117), Nguyên phi (元妃) của tiên đế Thánh Tông. Sau khi Dương thái hậu (楊太后) qua đời, bà trở thành Hoàng thái hậu nhiếp chính.

-  Hậu phi:

1. Lan Anh hoàng hậu (蘭英皇后).

2. Khâm Thiên hoàng hậu (欽天皇后).

3. Chấn Bảo hoàng hậu (震寶皇后).

4. Thánh Cực hoàng hậu (聖極皇后, ? - 1095).

5. Chiêu Thánh hoàng hậu (昭聖皇后. ? - 1108).


Tổng số thành viên: 19605
Thành viên mới nhất: Michell Nguyen
Đang trực tuyến: 14
Lượt truy cập: 4366647